Thuốc Nhà Vườn

Trở về trang đầu

Hoa hòe

Hoa hòe có tính mát, có tác dụng chữa chảy máu cam, lỵ, trĩ ra máu...

Hoa hòe còn có tên là hòe hoa, hòe mễ. Cách trồng: gieo hạt hay giâm cành vào mùa xuân. Bộ phận dùng: nụ hoa sắp nở. Thu hái, chế biến: thu hoạch hoa vào tháng 7-9, chọn ngày nắng ráo hái nụ hoa sắp nở phơi khô. Công dụng: chữa chảy máu cam, lỵ, trĩ ra máu, và các chứng chảy máu khác. Chữa đau mắt đỏ, đề phòng đứt vỡ mạch máu trong bệnh huyết áp cao. Liều dùng 10-20 g/ngày.

Bài thuốc ứng dụng:

- Bài 1: Chữa nhức đầu và đề phòng đứt vỡ mạch máu trong bệnh huyết áp cao: Hoa hòe sao thơm 10g; hạt muồng (thảo quyết minh) sao đen 20g; cúc hoa 5g; hãm với nước sôi, thêm đường cho ngọt uống trong ngày thay nước chè.

- Bài 2: Chữa trĩ chảy máu, chảy máu cam, tiểu tiện ra máu: Hoa hòe sao thơm 20g hãm nước uống hằng ngày đến khi hết chảy máu.

Theo tài liệu của Vụ y học Cổ truyền (Bộ Y tế) 

Trị bệnh bằng nước ép rau trái tươi

Lợi ích của nước ép rau trái tươi hẳn là điều ai cũng biết. Nhưng do bận rộn, ít thời gian, một số người đã sử dụng nước ép rau trái đóng hộp thay thế. Sự khác nhau giữa chúng là gì? Nước ép rau trái đóng hộp thường được làm từ nước rau trái cô đặc. Tùy theo chất lượng từng hãng, có khi nó được tái chế lại với đường, muối, màu, mùi nhân tạo, chất bảo quản hóa học. Tuy nhiên, cũng có một số hãng đưa ra những sản phẩm tốt. Bạn cần tham khảo kỹ thành phần nhãn hiệu.

Tốt nhất, bạn nên dùng nước ép rau trái tươi khi bị những vấn đề sau:

- Mụn nhọt: cà rốt, dưa leo, cây củ cải.

- Lão hóa: thân lúa mì.

- Mất ngủ: củ cải đỏ (cả củ và lá), cải xoăn , mùi tây, thân lúa mì, cỏ linh lăng

- Viêm khớp: cà rốt, dưa leo, cải xoăn, thân lúa mì.

- Suyễn: bắp cải, cà rốt, cần tây, cải xoăn, thân lúa mì, củ cải.

- Tuần hoàn máu kém: củ cải đỏ, cải xoăn, mùi tây, cải xoong

- Táo bón: táo, bắp cải, cần tây, mận, thân lúa mì.

- Mệt mỏi: cỏ linh lăng, atisô, củ cải đỏ (cả củ và lá), thân lúa mì.

- Phù nước: giá đậu, dưa leo, dưa hấu.

- Bệnh tim: củ cải đỏ (cả củ và lá), mùi tây, hẹ tây.

- Rối loạn chức năng gan: cỏ linh lăng, cà rốt, cần tây, cải xoăn, cà chua tươi, cải xoong, củ cải.

- Rối loạn chức năng phổi: củ cải (cả củ và lá), thân lúa mì.

- Những vấn đè về kinh nguyệt: củ cải đỏ (cả củ và lá) cải xoong, thân lúa mì.

- Những vấn đế của làn da: măng tây, mùi tây, hẹ tây, cà chua tươi, cải xoong, nhân lúa mì.

- Những vấn đế vế tuyến giáp: cỏ linh lăng, cải xoong.

- Viêm loét: bắp cải, cà rốt, cải xoăn, thân lúa mì.

- Béo phì (để giảm cân ): cỏ linh lăng, giá đậu, cà rốt, cần tây, dưa leo, thì là, mùi tây, củ cải, hẹ tây, cà chua tươi, cải xoong,thân lúa mì.

(Theo Phụ nữ)

Vị thuốc từ cây hoa gạo

 Hoa gạo là thứ cây rất quen thuộc đối với người dân nước ta, nhất là ở những vùng nông thôn miền Bắc. Cây hoa gạo có thể cao tới 15m hoặc hơn, cành mọc ngang với những gai hình nón, lá kép chân vịt với 5 - 8 lá chét hình mác hay hình trứng, dài chừng 9-15, rộng 4-5cm. Vào mùa xuân, lá gạo rụng hết, hoa bắt đầu nở đỏ tươi trên những cành nhỏ trước khi có mầm và lá non, khiến cả cây gạo bừng lên một sắc màu tươi thắm hết sức ấn tượng. Người ta yêu cây gạo không những vì vẻ đẹp của nó, mà còn vì các bộ phận của cây như hoa, vỏ thân và rễ đều có thể dùng làm thuốc chữa bệnh.

Công dụng theo y học cổ truyền

Cây hoa gạo còn được gọi là mộc miên, cổ bối, ban chi hoa, anh hùng thụ... Tên khoa học là Gossampinus malabarica (DC). Merr., thuộc họ Gạo (Bombaceae). Vỏ thân chứa nhiều chất nhầy; Hoa chứa 85,66% nước, 1,38% chất đạm, 11,95% chất đường, 1,09% chất khoáng; Hạt chứa 25% tinh dầu. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, nước sắc hoa gạo có tác dụng ức chế trực khuẩn lỵ mạnh hơn so với Chloromycetine và Berberine.

Theo dược học cổ truyền, vỏ cây gạo vị cay, tính bình, có công dụng thanh nhiệt lợi thấp, hoạt huyết tiêu thũng, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như viêm loét dạ dày, đi lỏng, kiết lỵ, đau khớp cổ chân và khớp gối, viêm loét ngoài da, chấn thương do trật đả...; Hoa gạo vị ngọt, tính mát, có công dụng thanh nhiệt lợi thấp, giải độc chỉ huyết, thường dùng để trị tiết tả (đi lỏng), lỵ tật (kiết lỵ), băng huyết, sang độc (viêm loét, nhọt độc), xuất huyết do chấn thương...; Rễ gạo vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt lợi thấp, thu liễm chỉ huyết (giải nhiệt và thấp trong cơ thể, cầm máu và thu sáp, băng se vết thương), thường được dùng để chữa viêm loét dạ dày, xích lỵ (kiết lỵ phân có máu), loa lịch (lao hạch), sản hậu nhũ thũng (sưng vú sau khi sinh con), tổn thương do trật đả. Trong các y thư cổ như Bản thảo cương mục, Bản thảo cầu nguyên, Sinh thảo dược tính bị yếu, Lĩnh nam thái dược lục, Hồng nghĩa giác tư y thư, Hải Thượng y tông tâm lĩnh..., các bộ phận của cây gạo đều được sử dụng để làm thuốc với những kiến giải khá độc đáo.

Một số cách dùng các bộ phận cây hoa gạo chữa bệnh

- Viêm khí phế quản cấp tính: Rễ gạo 30g sắc uống.

- Ho khạc nhiều đờm do phế nhiệt: Hoa gạo 15g, ngư tinh thảo (rau diếp cá) 15g, tang bạch bì 10g, sắc uống.

- Nôn ra máu: Hoa gạo 14 bông, thịt lợn nạc 100g. Hoa gạo rửa sạch, thái nhỏ; Thịt lợn thái miếng. Hai thứ nấu canh ăn.

- Ho ra máu: Hoa gạo 14 bông sắc kỹ, chế thêm một chút đường phèn, chia uống vài lần trong ngày.

- Viêm loét dạ dày: (1) Rễ, hoa hoặc vỏ thân cây gạo 15-30g, sắc uống. (2) Rễ, hoa hoặc vỏ thân cây gạo 30g, rễ cây lưỡng diện châm (Zanthoxylum nitidum) 6g, sắc uống.

- Lỵ trực khuẩn, viêm ruột và dạ dày cấp tính, đi lỏng, đại tiện ra máu: (1) Hoa gạo 60g, sắc kỹ, chế thêm một chút mật ong hoặc đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. (2) Hoa gạo 15g, kim ngân hoa 15g, phượng vĩ thảo (cỏ seo gà) 15g, sắc uống. (3) Hoa gạo 15-30g sắc kỹ, chia uống 3 lần trong ngày.

- Sưng đau vú sau khi sinh con: Hạt cây gạo 10g, sao vàng sắc uống.

- Trẻ em sốt cao vào mùa hè: Hoa gạo 6g, sắc kỹ, chế thêm chút đường phèn, chia uống vài lần trong ngày.

- Viêm khớp mạn tính, đau lưng và đau gối mạn tính: (1) Rễ gạo 30-60g, sắc hoặc ngâm rượu uống. (2) Vỏ thân cây gạo 15g, sắc kỹ, bỏ bã, chế thêm một chút rượu vang, chia uống 2 lần trong ngày.

- Tiểu tiện không thông: Chất gôm cây gạo 10g, kim ngân dây 20g, hạ khô thảo 20g, sắc với 750ml nước, cô còn 300ml chia uống 3 lần trong ngày.

- Sưng nề do chấn thương: (1) Vỏ thân hoặc rễ cây gạo ngâm rượu xoa ngoài hoặc giã nát đắp vào vị trí tổn thương. (2) Vỏ thân cây gạo 100g, củ nghệ vàng già 100g. Vỏ gạo cạo bỏ vỏ bẩn ở ngoài, băm nhỏ, giã nát với nghệ thái mỏng, dùng dấm thanh và rượu cho vào sao rồi chườm hoặc đắp vào vết thương khi còn nóng.

- Ngứa vùng hậu môn sinh dục: Vỏ thân cây gạo sắc lấy nước ngâm rửa nơi bị bệnh.

- Trĩ xuất huyết: Hoa gạo 20g, quyển bá 10g, hòe hoa 15g, sắc uống.

- Bong gân:

(1) Vỏ cây gạo 16g (cạo bỏ vỏ ngoài, sao rượu), lá lốt 16g (sao vàng), sắc với 750ml nước, cô còn 250ml, chia uống 2 lần trong ngày.

(2) Lá náng, quả đu đủ non và vỏ thân cây gạo, ba thứ lượng bằng nhau, rửa sạch, giã nhuyễn, băng tổn thương.

(3) Rau má tươi, vỏ thân cây gạo tươi, vòi voi tươi và bồ công anh tươi, bốn thứ lượng bằng nhau, rửa sạch, giã nát, bó vào nơi bị bệnh.

(4) Lá náng 1 phần, vỏ thân cây gạo gọt bỏ vỏ cứng thái nhỏ 1 phần, dọc cây đu đủ 1 phần. Ba thứ giã nát, sao với một ít rượu và nước tiểu trẻ em rồi chườm vào tổn thương.

- Gãy xương: Sau khi nắn chỉnh ổ gãy, dùng vỏ rễ cây gạo tươi rửa sạch, giã nát, bó vào vị trí gãy xương, 2 ngày thay 1 lần.

- Vết thương chảy máu và băng huyết: Hoa gạo lượng vừa đủ, đốt thành than uống.

- Đau răng: Vỏ thân cây gạo 20g sắc đặc, ngậm nhiều lần trong ngày

Hoàng Khánh Toàn (Tạp chí Sức Khỏe & Đời Sống)

Chữa tàn nhang và sắc tố trên da mặt  


Lá mướp có tác dụng chữa tàn nhang
 

Lá mướp giã nát, vắt lấy nước, hòa với mật ong, bôi lên các vết tàn nhang và sắc tố ngày 2-3 lần, để 20-30 phút rồi rửa sạch mặt. Bôi liền 10 ngày.

Các vết tàn nhang và sắc tố trên da mặt phần lớn phát sinh ở người có tuổi, có thể do bệnh nặng ở dạ dày, ruột hoặc các mụn, trứng cá bị nhiễm trùng. Nếu nguyên nhân là bệnh ở dạ dày và ruột, bệnh nhân sẽ có các triệu chứng miệng khô, chán ăn, buồn nôn và nôn, đau bụng, tiêu chảy, người gầy, các vết sắc tố xuất hiện dần dần theo từng mảng ở cả cổ và hai tay.

Để chữa tàn nhanh và các vết sắc tố, có thể dùng các bài thuốc đơn giản sau:

- Quả mướp tươi ép lấy nước (hoặc lấy nước nhựa cây mướp), dùng vải băng y tế đã khử trùng nhúng vào nước nhựa đó để đắp ngày 2-3 lần, mỗi lần làm đều thay băng mới.

- Cẩu khởi 1.000 g, sinh địa hoàng 300 g rang khô, nghiền thành bột, hòa 15 ml rượu, làm thành viên để uống dần, mỗi ngày 10-15 g. Thuốc có tác dụng bổ gan thận, nhuận da, tẩy trừ tàn nhang, sắc tố.

Ngoài ra, việc thường xuyên ăn bí đỏ, dưa chuột, rau cải trắng, cải bắp, cà rốt cũng có tác dụng tốt.

(SK&ĐS)

Hoa nhài

Ít ai biết được hoa nhài có công dụng chữa mất ngủ, giảm đau, an thần rất tốt.

Hoa nhài còn có tên là hoa nhài đơn, hoa nhài kép, mạt lỵ. Cách trồng: bằng đoạn thân mang rễ vào nơi đất tơi, xốp ẩm. Bộ phận dùng: rễ và hoa. Thu hái, chế biến: sáng sớm khi hoa còn đọng sương, hái phơi khô trong râm. Rễ đào quanh năm nhưng tốt nhất vào mùa thu đông, rửa sạch phơi khô. Công dụng: An thần, gây ngủ, chữa mất ngủ, giảm đau.

Bài thuốc ứng dụng:

Bài 1: An thần gây ngủ, chữa mất ngủ kéo dài: Rễ hoa nhài 100 - 200 g; rượu trắng 40o 1.000ml. Rễ nhài rửa sạch băm nhỏ, ngâm với rượu trong hai tuần. Ngày uống 10 - 20ml trước khi đi ngủ. Không dùng cho trẻ em.

Bài 2: An thần, chữa nhức đầu, khó ngủ: Hoa nhài 6g; hoa cúc vàng 4g hãm với 500ml nước uống trong ngày thay nước chè.

(Theo tài liệu của Vụ Y học cổ truyền)

 

Bọ Cạp

Bọ cạp còn gọi là toàn trùng, yết tử, yết vĩ, toàn yết. Tên khoa học Buthus sp. Nếu dùng cả con bọ cạp làm thuốc thì gọi là toàn yết, nếu chỉ dùng đuôi không thôi thì gọi là yết vĩ.

A. Nguồn gốc và chế biến

Tuy trong nước ta có nhiều loài bọ cạp, nhưng vẫn phải nhập bọ cạp ở nước ngoài về làm thuốc.

Con bọ cạp ở nước ta đã được xác định thuộc chi Buthiurus hoặc chi Heteronetrus. Thực tế ta có thể dùng nhiều loài khác nhau. Toàn yết ta dùng làm thuốc thuộc loài Buthus martensii Karsch, thuộc họ bọ cạp Buthidae. Ðây là một loài có đốt, thường sống ở dưới những hòn đá hoặc khe vách; đầu và ngực ngắn; bụng tương đối dài hơn, phía dưới của bụng thót lại và dài, cuối cùng có ngòi mang nọc độc.

Thường người ta bắt bọ cạp vào mùa xuân và mùa hạ; Khi bắt được cho ngay vào chậu hay nồi nước trong hoặc nước có pha thêm muối ăn (mỗi kilogam bọ cạp cho thêm 300-500g muối ăn). Ðậy vung lại và đun từ 3-4 giờ cho đến khi cạn nước; lấy bọ cạp ra phơi mát cho khô, không nên phơi nắng, vì nếu phơi nắng, muối có thể kết tinh. Khi dùng lại phải ngâm nước để rửa sạch hết muối đi.

Do nhu cầu lấy nọc bọ cạp để điều trị những rối loạn của hệ thần kinh, một số nước đã chú ý nuôi bọ cạp lấy nọc làm thuốc. Muốn có 1g nọc bọ cạp cần lấy ở 8.000 con một lần. Có thể dùng những xung điện để bắt bọ cạp tiết nọc nhiều lần. Nọc bọ cạp đắt hơn nọc rắn.

B. Công dụng và liều dùng

Toàn yết là một vị thuốc được dùng trong Ðông y làm thuốc trấn kinh, chữa trẻ em kinh phong, uốn ván; Ngoài ra còn dùng làm thuốc kích thích thần kinh, bán thân bất toại, bị cảm mồm miệng méo xệch.

Theo tài liệu cổ, toàn yết có vị mặn, hơi cay, tính bình, có độc, vào kinh can. Có tác dụng khu phong, trấn kinh. Dùng chữa kinh giản, phá thương phong, cảm mồm méo, mắt xếch, bán thân bất toại. Người huyết hư sinh phong không dùng được.

Nếu dùng thuốc sắc thì ngày dùng 3-5g; Nếu dùng thuốc bột hay thuốc viên thì chỉ dùng 2-3g, chia làm 2 hay 3 lần uống.

* Ðơn thuốc có bọ cạp

Thuốc chữa trẻ em kinh phong, người lớn sau khi ngất bị bán thân bất toại, thiên đầu thống (kinh nghiệm của Diệp Quyết Tuyền): Toàn yết (bỏ đầu, chân) 3g, địa long (rửa sạch, sao vàng) 3g, cam thảo 2g, tất cả tán bột. Chia làm 5 hay 6 lần uống trong ngày. Dùng nước nóng chiêu thuốc.

(Theo Sức khỏe và Đời sống)

 

Bài thuốc từ cây sắn dây  

Cây sắn dây được trồng và mọc hoang ở khắp nơi trên đất nước ta để lấy củ ăn và làm thuốc. Củ sắn dây còn gọi là cát căn, theo đông y có vị ngọt cay tính bình vào 2 kinh tì và vị. Tác dụng giải độc thải nhiệt. Củ sắn dây được dùng chữa sốt nhiệt mồm, miệng làm cho ra mồ hôi, nhức đầu do sốt, khát nước, đi lỵồ ra máu. Ngày dùng 8-20g dưới dạng thuốc sắc.

    Ðơn thuốc có củ sắn dây:

- Chữa cảm mạo sốt cao: Củ sắn dây 8g, ma hoàng 5g, quế chi 4g, đại táo 5g, thược dược 4g, sinh khương 5g, cam thảo 4g, nước sắc 600ml. Sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày.

- Bột rắc những nơi mồ hôi ẩm ngứa: Bột sắn dây 5g, thiên hoa phấn 5g, hòa thạch 20g trộn đều tán nhỏ rắc những nơi ẩm ngứa.

- Chữa trẻ con sốt: Củ sắn dây 20g thêm 200ml nước sắc còn 100ml cho trẻ uống trong ngày.

- Chữa rắn cắn: Khi bị rắn độc cắn lấy lá sắn dây tươi giã vắt lấy nước uống, bã đắp lên vết rắn cắn.

(Theo SK&ĐS)

Vị thuốc từ cá chép

Dân gian thường dùng cá chép trong phòng và chữa một số căn bệnh:

Bài l: Cá chép to một con, mổ bỏ ruột, đậu đỏ một thang, nước hai bát. Nấu cho ăn cả nước lẫn cái, ăn hết một lần sẽ thải ra chất độc là khỏi. Bài thuốc có tác dụng chữa có thai bị phù, đây là một chứng bệnh hay gặp ở phụ nữ có thai, là một dấu hiệu nguy cơ tiền sản giật trong thai nghén.

Bài 2: Cá chép một con, đậu sị, hành trắng, gạo nếp vừa đủ, thêm gừng và gia vị. Nấu cháo cho ăn hằng ngày rất tốt. Bài  thuốc có tác dụng chữa động thai.

Bài 3: Cá chép một con, gạo nếp 50 g, hành tươi 5 nhánh cắt khúc. Cho cá đem luộc lấy nước, sau đó vớt cá cho gạo nếp vào nấu cháo. Bài thuốc có tác dụng kiện tì, an thai, lợi tiểu, tiêu thũng. Chủ trị phụ nữ có thai bị phù.

Bài 4: Cá chép đen một con, chiều 30 tết, lúc nhá nhem tối lấy nước nấu sôi cá lên, chờ nguội đem tắm khắp mình trẻ. Bài thuốc có tác dụng chữa bệnh đậu ở trẻ em.

Bài 5: Mật cá chép, đất lòng bếp, trộn đều. Lấy ngón tay trỏ quệt bôi vào cổ. Bài thuốc có tác dụng chữa viêm họng, đau họng.

Bài 6: Mật cá chép 1 cái, gan gà trống 1 cỗ. Cả hai vị đem sấy khô, tán nhỏ luyện với trứng chim sẻ làm viên bằng hạt đậu xanh, mỗi lần uống 10 viên. Bài thuốc có tác dụng chữa các chứng liệt và cả bệnh liệt dương.

 (SK&GĐ)

Thuốc chữa bệnh từ cây bo bo

Hạt bo bo cũng có người gọi là hạt đỗ rĩ (ý dĩ). Bo bo vị ngọt, tính hơi hàn, có tác dụng trừ phong, thấp, nhiệt, trị co quắp, trị tiêu chảy lâu ngày, viêm đại tràng và tả lỵ. Sau đây là một số bài thuốc:

1. Trị chứng ung phế: Khi bị ho khạc ra đờm có mùi tanh, hôi, người mệt mỏi thì lấy ba vốc hạt bo bo giã nát cho vào siêu sắc với 300ml nước còn 100ml thì pha thêm một ít rượu chia làm hai lần uống trong ngày. Uông trong mấy ngày liền là kiên hiệu.

2. Trị đau tức ở thượng vị:

Nếu thấy đầy ứ và đau nhức ở vùng thượng vị thì lấy rễ cây bo bo rửa sạch, sắc đặc, lấy khoảng 300 ml nước sắc. Uống dần cho hết chỗ nước sắc này là khỏi.

3. Trị vàng da:

Nếu bị chứng vàng da do nhiệt độc kết bên trong mà phát ra thì lấy rễ bo bo rửa sạch sắc uống thay nước hằng ngày - Rất mau khỏi.

4. Trị chứng đi tiểu buốt – khó:

Nếu thấy chỗ bàng quang trương nhức đi tiểu khó - rất đau buốt, có khi lẫn những mảnh sỏi nhỏ trong nước thì lấy một vốc hạt bo bo, hoặc một nắm lá cây bo bo sắc hơi đặc - uống lúc còn nóng (mùa hè uống nguội). Uống tới khi đi tiểu dễ dàng thì thôi.

5. Trị giun sán:

Người bị giun sán hay bị đau nhức ở vùng bụng – vùng tim thì lấy khoảng 1kg (1.000gam) thân cây bo bo sắc với 1 lít nước. Còn lại 400ml uống sẽ khỏi.

6. Trị chứng trẻ em bị chảy dãi:

Trẻ bị chứng cam dãi, thường thấy dãi chảy ra ướt cả ngực áo thì lấy một nắm bo bo và nửa nắm lá húng cay (bạc hà) cho vào siêu đổ một bát nước vào sắc còn một chén cho trẻ uống liên tục trong ngày thì khỏi.

 

BS Hồng Nhung (Theo Đại đoàn kết)

Công dụng trị bệnh của quả dứa

Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học tại Đại học Tokyo (Nhật Bản) cho thấy, ăn dứa rất có lợi cho sức khỏe. Theo đó, những ai ăn từ 2-3 lát dứa/ngày (dày khoảng 3cm) có thể ngăn chặn được lượng huyết áp tăng trong máu, tình trạng máu vón cục, chứng vữa xơ động mạch, các cơn đau tim và cả đột quỵ.

Do quả dứa có chứa nhiều loại enzyme bromelain được xem có công dụng trị bệnh cao. Bromelain còn có tác dụng trị viêm họng, các triệu chứng dị ứng và cả ngăn ngừa ung thư do kích hoạt việc sản sinh các hợp chất chống ung thư như Interleukin 1, Interleukin 6. Dùng chất bromelain với lượng 160 mg/ngày rất hữu hiệu trong việc chữa lành vết thương, giảm chứng phù và nếu dùng 1.200 -1.800 mg/ngày sẽ giảm đáng kể chứng viêm khớp.

(TN)

Dưa hấu chữa bệnh

Trước nay, dưa hấu được xem là một trong những loại trái cây hết sức thông dụng của mọi gia đình, đặc biệt khi tiết trời trở nên oi bức, nóng nực. Dưa hấu không những ngon ngọt, dễ ăn mà còn cung cấp cho cơ thể một lượng nước khá lớn, không ít các vitamin và nguyên tố vi lượng quý giá. Hơn nữa, trong y học cổ truyền, cả ruột và vỏ dưa hấu còn được dùng làm thuốc chữa bệnh.

Công dụng của dưa hấu theo Y học cổ truyền

Giá trị của quả dưa hấu đã được dân gian đúc kết qua câu: "Nhiệt thiên lưỡng khảm qua, dược vật bất dụng qua" (Trời nóng ăn hai quả dưa thì không cần phải uống thuốc) và coi dưa hấu là "Hạ quý thủy quả chi vương" (Vua của trái cây mùa hè). Các y thư cổ như Bản thảo phùng nguyên, Tùy tức cư ẩm thực phổ, Nhật dụng bản thảo... đều cho rằng dưa hấu có công dụng thanh nhiệt giải thử, trừ phiền chỉ khát, lợi tiểu tiện và được dùng để chữa nhiều chứng bệnh như mụn nhọt, viêm loét miệng, phù do viêm thận, tiểu đường, cao huyết áp, lỵ, say nắng, say nóng, giải độc rượu... Thậm chí còn coi dưa hấu có tác dụng thanh nhiệt tả hỏa tựa như cổ phương trứ danh Bạch hổ thang.

Các cách chế biến dưa hấu điển hình

Trong đời sống hàng ngày, nhiều người tỏ ra rất lúng túng không biết nên chế biến và dùng dưa hấu thế nào để vừa đạt hiệu quả giải khát lại vừa đáp ứng tối đa nhu cầu dùng làm thuốc trong ăn uống. Trong bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu một số cách chế biến điển hình để bạn đọc tham khảo và vận dụng khi cần thiết.

Cách 1: Dưa hấu 1.500g, muối ăn lượng vừa đủ. Dưa rửa sạch, bổ đôi, nạo lấy phần ruột rồi gói vào khăn vải sạch, ép lấy nước; Vỏ dưa cạo bỏ vỏ xanh, thái vụn rồi cũng ép lấy nước (nếu có máy ép thì càng tốt); Hòa hai thứ nước lại với nhau, pha thêm chút muối, dùng làm đồ giải khát. Công dụng: Tiêu phiền, giải độc, làm hết khát. Người bị viêm nhiễm, mụn nhọt, cao huyết áp dùng rất hữu ích.

Cách 2: Dưa hấu 1 quả, chuối tiêu 3 quả, mật ong 100g. Rửa sạch dưa, dùng dao cắt ngang dưới núm một miếng để làm nắp, lấy thìa đánh nhuyễn phần ruột đỏ. Chuối bóc vỏ, thái vụn rồi cho cùng mật ong vào trong lòng quả dưa, tiếp tục đánh nhuyễn, đậy nắp, để vào tủ lạnh chừng 3 giờ là dùng được. Ðây là món giải khát thơm ngon, lại giàu chất dinh dưỡng, có công dụng bồi bổ, nhuận tràng, thông tiện. Theo y học cổ truyền, chuối (hương tiêu) vị ngọt, tính mát, có khả năng dưỡng âm nhuận táo, sinh tân dịch và làm hết khát.

Cách 3: Dưa hấu 1.500g, mật ong 30g, chanh 100g, rượu hoa quả 50ml. Dưa rửa sạch, dùng máy ép lấy nước rồi vắt chanh và cho mật ong cùng rượu vào quấy đều. Công dụng: Tiêu khát giải thử, sử dụng để giải khát mùa hè rất tốt. Theo y học cổ truyền, chanh vị chua ngọt, tính mát, có công năng sinh tân chỉ khát, thanh nhiệt giải thử, hóa đàm chỉ khái. Dinh dưỡng học cổ truyền thường dùng chanh phối hợp với dưa hấu hoặc nước mía để chế các loại nước giải khát thanh nhiệt trong mùa hè.

Cách 4: Dưa hấu 500g, mía 200g, đường phèn 20g. Dưa rửa sạch, bỏ vỏ và hạt, thái miếng; Mía róc vỏ, chẻ nhỏ. Hai thứ cho vào máy ép lấy nước, chế thêm đường phèn, uống hàng ngày. Công dụng: Thanh nhiệt lợi niệu, làm khỏe thận, chống nôn và giải độc rượu. Ðây là loại nước giải khát rất tốt và hấp dẫn, vừa thơm ngon vừa ngọt mát. Theo y học cổ truyền, mía vị ngọt, tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt trừ phiền, sinh tân chỉ khát, hòa trung nhuận táo, thường được dinh dưỡng học cổ truyền sử dụng cho những bệnh nhân bị các chứng bệnh như say rượu, ho và viêm hầu họng do phế âm hư, nôn và buồn nôn do bệnh lý dạ dày tá tràng, táo bón...

Cách 5: Vỏ dưa hấu 150g, khổ qua (mướp đắng) 50g, bí đao 50g. Vỏ dưa hấu gọt bỏ vỏ xanh, thái vụn; Khổ qua và bí đao đều gọt vỏ bỏ ruột rồi thái vụn. Tất cả cho vào máy ép lấy nước, có thể cho thêm chút đường phèn, hòa tan rồi dùng làm nước giải khát. Công dụng: Thanh nhiệt giải thử, trừ phiền chỉ khát; Dùng làm đồ uống mùa hè rất tốt, đặc biệt với những người bị tiểu đường, mụn nhọt, viêm đường tiết niệu, béo phì... Theo y học cổ truyền, khổ qua vị đắng, tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt giải thử, giải độc minh mục. Nghiên cứu hiện đại đã chứng minh khổ qua có khả năng làm hạ đường huyết ở những bệnh nhân bị tiểu đường. Bí đao vị nhạt, tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt hóa đàm, trừ phiền chỉ khát, lợi thủy tiêu thũng, giúp cơ thể trở nên thon thả, da dẻ tươi sáng.

Cách 6: Vỏ dưa hấu 150g, bách hợp 50g, lê 100g, đường phèn 10g. Vỏ dưa gọt bỏ vỏ xanh, bách hợp rửa sạch, lê bỏ vỏ và hạt, tất cả thái vụn, cho vào máy ép lấy nước, hòa đường phèn rồi uống. Công dụng: Thanh nhiệt trừ thử, thanh tâm nhuận phế, giải khát. Theo y học cổ truyền, lê vị ngọt, tính mát, có công năng thanh nhiệt sinh tân, nhuận táo hóa đàm, giải rượu; Thường được dùng cho những người bị sốt cao mất nước, tiểu đường, táo bón, viêm nhiễm đường hô hấp, say rượu... Bách hợp vị ngọt đắng, tính hơi lạnh, có công dụng nhuận phế chỉ khái, thanh tâm an thần; Thường được dùng cho những người bị bệnh đường hô hấp, suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể sau khi bị các bệnh có sốt cao kéo dài.

Cách 7: Dưa hấu 6.000g, dứa 500g, đường cát 50g, nước đun sôi để nguội 300ml. Dưa bỏ vỏ và hạt, dứa gọt vỏ thái miếng ngâm với nước muối nhạt trong 1 phút, đem hai thứ ép lấy nước cốt, hòa đường, chế thêm nước rồi làm đồ giải khát. Công dụng: Thanh nhiệt trừ phiền, sinh tân chỉ khát, kích thích tiêu hóa, được dùng làm nước uống lý tưởng trong mùa hè. Theo y học cổ truyền, dứa vị ngọt chua, tính bình, có công năng thanh nhiệt sinh tân, trừ phiền chỉ khát. Loại quả này có mùi thơm và vị ngọt đặc biệt, được dân gian ca tụng là "Bà chúa của các loại hoa quả".

Dưa hấu tuy có tác dụng thanh nhiệt giải khát lý tưởng và chữa trị được nhiều bệnh tật, nhưng khi dùng cần lưu ý không nên ăn quá nhiều một lần và nhiều lần trong một ngày, đặc biệt là những người tỳ vị vốn đã hư yếu, hay đau bụng đi lỏng và rối loạn tiêu hóa. Ngoài ra, cũng không nên ăn những quả dưa hấu chưa chín, bị hư do để quá lâu và bị giập nát.

(Theo Sức khỏe và Đời sống)

Trị bong gân bằng y học cổ truyền

Bong gân là một tổn thương thường gặp ở gân, cơ, dây chằng, bao khớp tại các khớp. Nếu xử trí không kịp thời và đúng cách, nó có thể để lại di chứng như hạn chế vận động khớp, cứng khớp...

ồngd

Lạc cũng có tác dụng chữa bong gân.

Nguyên nhân gây bong gân thường gặp nhất là lao động nặng, chơi thể thao,mang vác vật nặng, bước hụt. Người bệnh thường có cảm giác đau buốt, sưng đỏ hoặc xanh tím, phù nề quanh khớp bị tổn thương.

Để chữa bong gân, có thể áp dụng những bài thuốc Nam sau:

- Rau hẹ tươi rửa sạch, giã nát rồi đắp vào chỗ tổn thương. Ngày đắp 1-2 lần.

- Lá bưởi tươi rửa sạch, giã nát, trộn với ít rượu trắng đắp vào chỗ đau, mỗi ngày 1-2 lần.

- Lá cây nhãn sấy khô, giã nát, trộn với bột chín làm thành hồ, đắp vào chỗ đau. Mỗi ngày có thể làm 1-2 lần.

- Lạc nhân 60 g, băng phiến 5 g, giã nát, đắp vào chỗ đau. Mỗi ngày làm 1 lần.

- Lá sen tươi 60 g, hạt dành dành 12 g. Cả hai vị đem giã nát, đắp vào chỗ đau. Mỗi ngày làm 1 lần.

- Dây bí ngô 50 g, gừng tươi 20 g, giã nát đắp vào chỗ đau, có thể dùng băng để cố định thuốc tại chỗ đau, thỉnh thoảng nhỏ thêm ít rượu loãng vào miếng thuốc đắp.

- Hành củ, gừng già và cỏ gấu lượng bằng nhau, giã nát rồi trộn với bột mỳ và rượu trắng, đắp vào chỗ đau.

- Pha mật gấu với rượu trắng nhạt, trong uống ngoài xoa; có tác dụng tiêu sưng nề, tan máu tụ, giảm đau nhanh.

- Hành 2-3 củ, đậu phụ 60 g, giã nát rồi đắp vào chỗ đau. Mỗi ngày làm 1 lần.

(Theo Thuốc và Sức khỏe)

Tự chữa stress bằng phương pháp không dùng thuốc

Trong cuộc sống hàng ngày, bất cứ ai cũng có những cảm xúc buồn, thương, giận, ghét..., tuy nhiên khi một hoặc nhiều cảm xúc này lặp đi lặp lại nhiều lần và kéo dài, chúng sẽ ảnh hưởng xấu đến hệ thần kinh và dẫn đến bệnh tật. những trường hợp này khoa học gọi là strees. stress có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau như mệt mỏi, hay cáu gắt, mất ngủ, nhức đầu, đau gáy, kém ăn, rối loạn kinh nguyệt...

Những triệu chứng do stress gây ra

Thời gian đầu, những triệu chứng do strees gây ra chỉ là rối loạn thần kinh, rối loạn khí hóa. Lâu dài, strees có thể dẫn đến những tổn thương thực thể như viêm xoang, loét dạ dày... Ngoài ra strees còn làm giảm sức đề kháng của cơ thể và làm trầm trọng thêm các chứng bệnh tiềm ẩn. Theo một nghiên cứu của Trung tâm Y khoa phòng ngừa ở Atlanta, Mỹ thì những người dưới 60 tuổi tính khí nóng nảy có nguy cơ bị tai biến mạch não cao gấp 3 lần so với người bình thường.

Theo y học, stress luôn đi đôi với cuộc sống công nghiệp. Lý do vì công nghiệp phát triển đã tạo ra nhiều nhu cầu mới và đa dạng, thúc đẩy con người phải suy nghĩ, lo toan và làm việc căng thẳng nên dễ dẫn đến stress.

Gần đây, công ty Hoffman La Roche đã thực hiện một cuộc khảo sát về tình trạng strees tại Việt Nam. Kết quả cho thấy tỷ lệ người bị strees bình quân là 52%. Ở các thành phố lớn như Hà Nội và TPHCM, tỷ lệ này là 55%. Từ đó cho thấy việc nhận thức về tầm nguy hại của strees để chủ động phòng chống là điều cần thiết.

Từ lâu, các nhà khoa học đã biết về mối liên quan chặt chẽ giữa hoạt động của hệ thần kinh và hoạt động cơ bắp. Khi tâm tư lo lắng hoặc tinh thần rối loạn thì hoạt động sinh lý, nội tạng bị xáo trộn và trương lực cơ bắp cũng gia tăng. Ngược lại, nếu điều hòa được trương lực cơ bắp ở mức thư giãn thì thần kinh cũng ổn định. Ðặc biệt ở những người bị strees, suy nhược thần kinh hoặc mất ngủ lâu ngày, trương lực cơ bắp của họ thường trong tình trạng căng cứng hơn bình thường, và chính điều này đã tác động ngược trở lại, làm hoạt động của hệ thần kinh rối loạn thêm.

Một số phương pháp chữa stress đơn giản và hiệu quả

Từ những phân tích trên, chúng tôi đã hướng dẫn cho nhiều người một phương pháp chữa strees đơn giản nhưng hiệu quả bằng cách phối hợp giữa việc kiểm soát hơi thở với day, ấn một số huyệt vị và vùng đặc trị của y học cổ truyền, nhằm đạt đến hai yêu cầu thư giãn và an thần. Phương pháp được tiến hành tuần tự qua các động tác sau:

1. Vuốt ấm vành tai: Dùng ngón tay trỏ và ngón cái vuốt dọc vành tai cùng bên từ trên xuống dưới. Vuốt chậm và nhẹ. Vuốt khoảng 21 lần. Những nghiên cứu của y học hiện đại và y học cổ truyền đều thống nhất về những vùng quy chiếu ở phần ngoài của cơ thể có liên quan với các cơ quan nội tạng nằm sâu bên trong. Một trong những vùng quy chiếu quan trọng với một hệ thống thần kinh dày đặc và tinh tế là vành tai, mà khi tác động vào có thể tái lập được sự cân bằng nội môi, điều hòa được hệ thần kinh trung ương. Do đó việc vuốt cho hai vành tai ấm lên có tác dụng điều hòa thần kinh giao cảm, thúc đẩy khí huyết lưu thông và thư giãn toàn thân.

2. Vuốt dọc xương chân mày: Dùng hai ngón tay trỏ và giữa vuốt từ đầu chân mày, dọc theo xương chân mày ra đến chân tóc phía ngoài đuôi mắt. Vuốt chậm và nhẹ. Vuốt khoảng 21 lần. Vùng chân mày và cánh tay có những điểm phản xạ tương ứng nhau. Do đó động tác này tạo được sự thư giãn cơ bắp giữa vùng cánh tay và bàn tay. Hai bàn tay là hai bộ phận quy chiếu khác ứng với toàn cơ thể, nên thư giãn được hai bàn tay sẽ ảnh hưởng đến thư giãn chung của toàn thân.

3. Vuốt dọc hai bên mũi: Dùng ngón trỏ của một bàn tay vuốt một bên mũi, rồi dùng hai bàn tay vuốt cùng lúc cả hai bên. Vuốt dọc từ điểm giữa hai chân mày (huyệt Ấn đường) dài theo hai bên thân mũi, qua khóe miệng đến tận góc cằm. Vuốt chậm và nhẹ khoảng 21 lần. Theo học thuyết kinh lạc của y học cổ truyền, kinh Dương minh được phân bố dọc theo hai bên mũi và miệng, là một kinh đa khí, đa huyết có chức năng quan trọng nhất trong phần "vệ khí", nên động tác này giúp khí huyết lưu thông ra ngoài, làm gia tăng tác dụng thư giãn.

4. Day ấn huyệt Ấn đường: Dùng ngón trỏ của bàn tay phải ấn nhẹ vào điểm giữa hai chân mày trong vài giây, day thành vòng tròn chung quanh điểm này khoảng 21 vòng. Khi tác động vào huyệt Ấn đường, cơ thể sẽ tiết ra chất Endorphine nội sinh, có tác dụng giảm đau, giáng khí và an thần.

5. Kích thích vùng sau đầu: Ðặt nguyên hai bàn tay vào hai vùng gáy ở sau đầu, sát cạnh phía sau của tai. Vuốt nhẹ từ trên xuống dưới phía sau hai vành tai. Vuốt khoảng 21 lần. Ðộng tác này nhằm tác động vào hai đường kinh Túc thiếu dương đởm và Túc thái dương bàng quang, đặc biệt là hai huyệt An miên và Thiên trụ, có tác dụng chống khí nghịch, điều trị thần kinh suy nhược và làm thanh sảng vùng đầu não.

6. Quan sát hơi thở: Sau khi thực hành 5 động tác trên, ngồi thoải mái trên một cái ghế có chỗ tựa lưng, hai tay đặt nhẹ trên đùi hoặc nằm xuống nghỉ ở một nơi yên tĩnh, thoáng mát. Trong thời gian này, hãy chú ý quan sát hơi thở bằng cách tập trung tư tưởng ở vùng bụng dưới, hoặc tại một điểm mà các nhà khí công hoặc đạo gia gọi là Ðơn điền (dưới rốn khoảng 3 phân). Lúc hít vào, bụng dưới hơi phồng lên. Lúc thở ra, bụng dưới hơi xẹp xuống. Thoạt đầu có thể bạn chưa quen với lối thở bụng nhưng điều này không ảnh hưởng gì. Nên nhớ là chúng ta cần thư giãn, vì vậy không cần quan tâm đến hơi thở sâu hay cạn, nhiều hơi hay ít hơi. Chỉ cần thở nhẹ, thở bình thường là đủ. Ðiều quan trọng là phải chú ý quan sát để biết rõ là ta đang hít vào hay đang thở ra thông qua chuyển động phồng lên hay xẹp xuống của làn da bụng:

- Phồng lên (biết rõ ta đang hít vào); Xẹp xuống (biết rõ ta đang thở ra).

Lưu ý

- Chậm, nhẹ và tập trung tâm ý vào từng động tác trong lúc thực hành là điều cần thiết để phương pháp đạt được hiệu quả. Chú tâm quan sát sự lên xuống của da bụng cũng như việc thực hành từng động tác ở 5 phần trước là một phương pháp thay thế, để khi tập trung vào những ý niệm này, ta sẽ không còn cảm giác âu lo hoặc căng thẳng trước đó. Ðây cũng là nguyên tắc dùng sự ức chế thần kinh ở một điểm hoặc ở một vùng nhỏ, gây ra quá trình ức chế lan tỏa khắp vùng dưới vỏ não để tạo ra hiệu ứng thư giãn, nhập tĩnh.

- Chú tâm quan sát sự phồng lên, xẹp xuống ở bụng dưới còn giúp tạo nên quán tính thở sâu của cơ thể, hữu ích cho việc dưỡng sinh, tăng cường sức khỏe về lâu dài.

- Theo y học cổ truyền, "thần đâu, khí đó", vì vậy việc tập trung tư tưởng ở vùng bụng dưới còn làm cho ý và khí lưu chuyển về phía dưới của cơ thể, giúp giáng khí và làm nhẹ áp lực ở vùng đầu, não, dẫn đến thư giãn.

- Phần quan sát hơi thở có thể thực hành cùng lúc trong một lần tập (tiếp sau các động tác từ 1-5), hoặc cũng có thể tập riêng lẻ tùy theo ý thích và điều kiện thời gian của mỗi người.

Tất cả 5 động tác đầu kéo dài khoảng 5 hoặc 6 phút. Nếu thực hành đúng, tập trung cao, tình trạng thư giãn đồng bộ giữa cơ bắp và thần kinh sẽ xảy ra. Một số người với khả năng tập trung tốt có thể dần dần đi vào giấc ngủ sau khoảng vài chục hơi thở ở giai đoạn quan sát hơi thở.

Những nghiên cứu về hiệu ứng stress của hai bác sĩ H. S. Liddell và A. V. Moore đã đưa đến kết luận: Nếu những cảm xúc khó chịu có điều kiện ngắt khoảng, tức không xảy ra liên tục - dù chỉ trong chốc lát - thì chúng sẽ không dẫn đến bệnh tật. Do đó việc thực hành thư giãn - dù chỉ trong vài phút mỗi lần - cũng sẽ rất hữu ích để duy trì một điều kiện tâm lý tốt, đủ hóa giải những căng thẳng do cuộc sống gây ra.

Lương y Võ Hà (Tạp chí Sức Khỏe & Đời Sống)

Gừng: Vị thuốc đa năng của mỗi gia đình

Khi bị cảm cúm với triệu chứng đau đầu phát sốt, sợ lạnh, không ra mồ hôi, hơi nôn, có thể dùng gừng tươi 15 g, tỏi 6 nhánh sắc lấy nước, cho chút đường uống lúc còn nóng, sau đó nằm đắp chăn kín. Mỗi ngày làm một lần. Đây chỉ là một công dụng đơn giản của gừng.

    Những nghiên cứu gần đây cho thấy, gừng có tác dụng chống lão hóa, phòng chống ung thư và phòng sỏi mật.

    Theo Đông y, gừng tươi có tính cay, hơi ôn, có tác dụng làm ra mồ hôi, tán hàn, ôn trung, tiêu đờm, làm hết nôn, hành thủy, giải độc; dùng chữa ngoại cảm, nôn mửa, bụng đầy, ho nhiều đờm, giải độc cua cá. Gừng khô đã bào chế có vị cay, đắng, tính đại nhiệt, có tác dụng ôn trung, tán hàn, thông mạch, chữa thổ tả, đau bụng, chân tay lạnh, mạch nhỏ, phong, hàn. Dân gian thường dùng gừng chữa kém ăn, ăn uống không tiêu, nôn mửa, đi ngoài lỏng, cảm mạo phong hàn, ho mất tiếng...

   Một số bài thuốc có gừng:

Cảm sốt, sợ rét, không mồ hôi:
Dùng gừng tươi 3 lát, củ cải 1 củ, rễ rau cải trắng 3 cái, nước 3 bát, sắc còn 1,5 bát. Uống 2 lần lúc nóng ấm. Nằm đắp chăn cho ra mồ hôi.

Cảm lạnh, sợ rét, đau mỏi, không mồ hôi: Dùng gừng tươi 10 g, lá chè 6 g, lá tía tô 10 g, lá kinh giới 10 g, đường đỏ 30 g. Cho nước vừa đủ, đun sôi 20 phút rồi cho đường đỏ vào, hòa tan. Uống khi nước nóng ấm, ngày 2 lần.

Người già bị hen suyễn: Gừng tươi 15 g, trứng gà 1 quả. Gừng thái nhỏ, đập trứng vào đánh đều, xào chín, ăn khi nóng. Hoặc: Dùng gừng tươi 10 g, xuyên bối mẫu, trần bì, ngũ vị tử, bắc tế tân mỗi thứ 3 g, mật ong 16 g, nước cam 90 ml; cho tất cả vào bát, trộn đều, hấp cách thủy cho chín. Chia ăn 3 lần trong ngày.

Viêm phế quản mạn tính: Gừng tươi 50 g, rễ cây chè 100 g, mật ong, nước vừa đủ. Sắc gừng, rễ chè cho sôi độ 10-15 phút, rót nước ra, cho mật ong vào khuấy đều, bỏ vào lọ, dùng dần. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 20 g.

Tiểu đường: Gừng khô 50g, mật cá diếc 3 cái. Gừng sao, tán nhỏ, cho mật cá vào trộn, vê thành viên bằng hạt đậu xanh. Ngày uống 5-6 viên. Hoặc: Gừng tươi 5 g, chè xanh 6 g, nước 500 ml. Đun cạn còn 350 ml, cho muối ăn 4 g vào khuấy đều. Uống hết thuốc trong ngày.

Tứ chi tê dại: Gừng tươi 60 g, hành 120 g, giấm 120 g. Tất cả cho vào nồi đun sôi, xông tay chân tê, ngày 1 lần.

Nấc liên tục không dứt: Gừng tươi 30 g, mật ong 30 g. Giã gừng vắt lấy nước, cho mật ong vào, trộn đều, cho thêm tí nước ấm, uống từ từ, nín hơi mà uống.

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

Rau thơm - Có thể dùng chữa bệnh

Hằng ngày khi ăn rau thơm, ta đã hấp thu được một lượng lớn tinh dầu, chất diệp lục và các pectin có tính kháng khuẩn mạnh. Trong một số trường hợp, chúng có thể chữa bệnh.

- Hẹ (cửu thái): Vị cay, hơi chua, mùi đắng, tính ấm. Củ hẹ và lá hẹ thường dùng chữa ho, lỵ, giun kim, đau họng, hen suyễn.

Cách dùng: Hấp đường phèn với lá, củ hẹ giã nát, lấy nước, ngậm nuốt từ từ để chữa ho hen. Giã vắt nước cốt hẹ thụt hậu môn để trị giun kim khi giun xuống hậu môn.

- Bạc hà: Vị cay, thơm, tính mát, giúp phát tán phong nhiệt, hạ sốt; thường dùng chữa cảm, nhức đầu, dị ứng nổi mề đay, viêm họng có sốt, đàm vướng cổ, đau họng khản tiếng, say nắng, thúc sởi mau mọc.

- Hành: Vị cay, tính ấm, có tác dụng trừ phong, giải hàn tà, lợi khí, tiêu sưng; thường dùng chữa cảm cúm (nấu cháo hành, tía tô, tiêu, gừng ăn nóng để giải cảm cúm). Trị đau bụng do lạnh, đau răng, mụn nhọt, lợi tiểu, an thai.

- Diếp cá: Vị cay, chua, mùi hơi tanh, tính mát, có tác dụng giải nhiệt, giải độc, tiêu ung thũng, lợi tiểu, điều kinh. Thường dùng chữa các loại viêm sưng, mụn nhọt, đau mắt đỏ, lòi dom, sốt xuất huyết, trĩ ra máu, kinh nguyệt không đều.

- Húng chanh: Vị cay, thơm, tính ấm, có tác dụng phát tán phong hàn, tiêu đàm, diệt khuẩn, tiêu độc trừ phong. Thường dùng làm thuốc chữa ho, cảm cúm, chữa kiến độc, bọ cạp và rết đốt (giã nát húng chanh đắp lên vết đốt, sẽ giảm đau nhức).

- Kinh giới: Vị cay, tính ấm, phát tán phong hàn, thông huyết mạch, thường dùng chữa cảm hàn, giải độc, cảm nhiễm gây đau nhức. Khi sao đen kinh giới thì nó có tác dụng cầm máu. Thường dùng để chữa đái ra máu, rong kinh, băng huyết, chảy máu cam.

- Ngò (rau mùi): Vị cay thơm, tính ấm, kích thích tiêu hóa, chống tà khí, thông khí uất ở đường tiêu hóa. Thường dùng trị cảm lạnh, thúc ban sởi mau mọc. Hạt ngò dùng làm thuốc chữa tắc sữa, mặt bị nám, ban, sởi, lòi dom. Người bị hôi nách, hôi miệng, sưng chân không ăn ngò. Khi uống thuốc có các vị bạch truật, mẫu đơn bì thì kiêng ăn ngò.

- Rau ngổ: Vị cay thơm, mát, có tác dụng tiêu thực, cầm máu. Thường dùng để kích thích tiêu hóa, chữa băng huyết, thổ huyết, mụn nhọt viêm sưng.

- Mùi tàu: Vị cay thơm, tính ấm, có tác dụng thông khí, trừ hàn, tiêu thực. Thường dùng để chữa cảm mạo, ăn uống khó tiêu.

- Rau răm: Vị cay tính ấm, tiêu thực, kích thích tiêu hóa. Thường dùng khi ăn trứng vịt lộn, thịt bò, thịt gà, cháo trai, hến để giúp ngon miệng và làm ấm tỳ vị.

- Tía tô: Vị cay, tính ấm, phát tán phong hàn, giải độc, tiêu tích, hạ khí. Thường dùng để chữa cảm cúm, nhức đầu, ho, sốt, buồn nôn, ngộ độc cua cá; an thai, trừ đàm nhớt ở cổ họng.

Tía tô còn được dân gian dùng chữa mụn cóc rất hiệu nghiệm: Lá tía tô rửa sạch, để khô đặt lên mụn, chà xát nhiều lần đến khi lá nát, hết nước thì bỏ đi và cũng không cần để ý đến mụn nữa. Vài ngày sau nhìn lại thì mụn bay hết lúc nào không biết.

(Theo SK&ĐS )

 

Tác dụng chữa bệnh của rau muống

Rau muống có thể thải trừ cholesterol máu và chống tăng huyết áp. Vì vậy, những người bị chứng huyết áp cao, cholesterol máu cao, cơ thể gầy khô nên ăn nhiều loại rau này.

Theo Đông y, rau muống vị ngọt nhạt, tính mát, có tác dụng giải độc, thông đại tiểu tiện, chữa táo bón, đái rắt. Dân gian dùng rau muống để phòng và chữa một số chứng bệnh thường gặp:

- Làm mất tác dụng của những thuốc đã uống, giải độc: Rau muống rửa sạch giã nát, vắt lấy nước uống.

- Chữa vết thương, vết mổ sâu rộng: Ăn rau muống hằng ngày kích thích sinh da chóng đầy miệng (những trường hợp có cơ địa sẹo lồi không nên dùng trong thời gian chưa liền sẹo).

- Giảm đường máu: Bệnh nhân tiểu đường nên dùng rau muống thường xuyên.

- Chữa dị ứng bội nhiễm ngoài da: Rau muống tươi một nắm rửa sạch, đun sôi kỹ, để vừa ấm, rửa chỗ thương tổn. Hoặc: Rau muống 30 g, râu ngô 15 g, mã thầy (củ năn) 10 củ. Sắc uống hằng ngày đến khi khỏi.

(Sức Khoẻ & Đời Sống

Quả chuối: Thức ăn và vị thuốc Ðông - Tây y

Chuối có nhiều loại, nhưng phổ biến nhất là chuối tiêu được trồng khắp nơi ở nước ta và cho quả quanh năm. Tiếp đến là chuối Tây (có nơi gọi là chuối Sài Gòn) mới di thực vào nước ta từ khi người Pháp tới xâm chiếm. Chuối không những là loại quả thơm ngon, có giá trị dinh dưỡng cao mà còn là vị thuốc rất quan trọng trong y học cổ truyền phương Ðông lẫn y học hiện đại.

        CHUỐI VỚI Y HỌC ÐƯƠNG ÐẠI

        Về giá trị dinh dưỡng, một quả chuối chín vàng trung bình có khoảng 1,5g protein, 23g glucid..., tạo ra khoảng 100Kcal, 25% khẩu phần vitamin B6 và 15% khẩu phần vitamin C. Ngoài ra nó còn có các vitamin khác như: B1, B2, PP, Caroten... và các chất khoáng Calci, Phosphore, sắt..., nhưng đặc biệt Kali nhiều tới 450mg. Ở các nước Âu, Mỹ, với người bị bệnh tiêu chảy, nhiều bác sĩ thường khuyên ăn chuối. Chuối giúp dễ tiêu hóa, bồi bổ cơ thể và không làm xót ruột. Nó kích thích tái tạo tế bào niêm mạc dạ dày, tăng tiết chất nhầy, có tác dụng bảo vệ niêm mạc và làm lành các vết loét dạ dày. Chất pectin trong chuối làm nhẹ bớt triệu chứng của tiêu chảy và còn có thể phòng ngừa được ung thư ruột. Quả chuối chín là món ăn lành tính dễ tiêu, giảm buồn nôn... Chuối còn có tác dụng phòng và chữa bệnh cao huyết áp, do có hàm lượng Kali cao và giàu pectin nên có tác dụng làm giảm cholesterol xấu, tăng cholesterol tốt, chống xơ vữa động mạch.

        Về tác dụng chống ung thư, giáo sư Sany, trường Ðại học Tokyo (Nhật Bản) đã tiến hành so sánh hoạt tính miễn dịch của rất nhiều loại quả, và đi đến kết luận quả chuối tiêu có khả năng miễn dịch cao nhất, nó có thể làm tăng bạch cầu, tăng khả năng của hệ miễn dịch và sinh ra chất INF có tác dụng tiêu diệt các tế bào khác thường. Hiện nay các nhà khoa học Nhật đang cố gắng tìm ra hoạt chất chống ung thư trong quả chuối để có thể sản xuất thuốc chữa trị ung thư mà không gây phản ứng phụ.

        Một số nhà khoa học Mỹ ở trường Ðại học Johns Hopkins cho rằng lượng Natri tăng sẽ làm tăng lượng nước giữ lại trong cơ thể và gây tăng huyết áp, còn Kali trong cơ thể thì tạo thuận lợi trong quá trình loại bỏ Natri. Kali lại có nhiều trong chuối, họ tính toán một người bệnh cao huyết áp cần ăn 5 quả chuối/ngày (được khoảng 2.300mg Kali) để chữa trị bệnh này.
Ðiều lý thú là ở Ấn Ðộ cũng có công trình nghiên cứu về việc ăn chuối để điều trị bệnh cao huyết áp. Nhưng cơ sở lý luận thì khác người Mỹ. Theo nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học Ấn Ðộ, chỉ cần ăn 2 quả chuối/ngày sẽ giúp huyết áp giảm xuống sau một thời gian ngắn. Một số người tình nguyện thuộc trường Ðại học Manipal (miền Nam Ấn Ðộ) đã thực hiện một chế độ ăn chuối như trên và chỉ sau một tuần, huyết áp của họ đã giảm được 10%. Nguyên lý của hiện tượng này, theo các nhà khoa học Ấn Ðộ là do trong chuối có chứa một hợp chất có tác dụng ức chế enzyme chuyển đổi angiotensine I (gồm có 10 acid amin) sang chất angiotensine II (gồm có 8 acid amin). Angiotensine II là chất gây co mạch máu làm tăng huyết áp... Các nhà nghiên cứu Ấn Ðộ cho biết họ đã tìm thấy chất có tác dụng ức chế nói trên trong 6 loại chuối, đặc biệt trong chuối chín có nhiều hơn. Do chuối có tác dụng làm giảm huyết áp nên người ta khuyên những bệnh nhân cao huyết áp đang phải dùng thuốc hạ huyết áp không nên ăn chuối để tránh sự cộng đồng tác dụng.

        Trong quả chuối chín còn chứa một chất đặc biệt giúp cho não người sản sinh ra chất hydroxylamin làm giảm nhẹ tâm trạng lo lắng, buồn phiền. Do đó những người bị stress, xúc động mạnh, buồn bực quá mức nên ăn 2-3 quả chuối/ngày sẽ có tác dụng tốt.

        Chuối còn được nghiên cứu trong lĩnh vực da liễu. Người ta phát hiện vỏ quả chuối tiêu có chứa một hoạt chất với tác dụng ức chế sự sinh sản, phát triển của vi khuẩn và các loại nấm, được dùng trong việc chữa trị các chứng bệnh mẩn ngứa ngoài da do nấm. Ở Anh, người ta nghiên cứu một loại thuốc điều trị bệnh vẩy nến với tên thương phẩm là Exorex. Thuốc gồm một tá dược làm dịu da chứa 1% hắc ín than đá và một chất từ... vỏ chuối. Nói cho đúng đó là acid béo chiết xuất từ vỏ quả chuối có tác dụng tăng cường hiệu quả của hắc ín. Khác với các thuốc điều trị vẩy nến khác, Exorex không gây bỏng hoặc nhuộm da, dễ được hấp thu và không nặng mùi.

        CHUỐI TRONG Y HỌC CỔ TRUYỀN

        Theo YHCT, chuối có vị ngọt, tính bình, bổ tỳ vị, nhuận tràng lợi tiểu. Trong cuốn "Bản thảo cầu nguyên" có ghi tác dụng chữa bệnh của chuối tiêu là chỉ khát, nhuận phế, giải say rượu, thanh tỳ, hoạt trường...

        Trong y học cổ truyền, chuối thường được dùng chữa một số bệnh sau:

- Chữa trĩ: Lấy 1-2 quả chuối tiêu bỏ vỏ, thái từng miếng, cho thêm chút đường phèn vào hấp cách thủy cho chín, mỗi ngày ăn 1-2 lần, ăn liên tục vài ngày.

- Trị lang ben, hắc lào: Bổ dọc quả chuối tiêu xanh, xát mạnh mặt cắt lên vùng bệnh. Làm nhiều lần.

- Trị mụn nhọt: Chuối tiêu xanh bỏ vỏ, nghiền nát, đắp vào chỗ bị sưng, ngày 2 lần.

- Làm thuốc bổ: Chuối tiêu chín 15 quả bóc bỏ vỏ đem ngâm với 1 lít rượu gạo trong 15 ngày. Dùng 30-35ml/ngày bồi dưỡng cho người cao tuổi, người suy nhược, người ốm mới khỏi bệnh.

        Ở nước ta, nhân dân có kinh nghiệm dùng chuối chữa táo bón cho trẻ em như sau: Lấy 1-2 quả chuối tiêu chín đem nướng trên bếp than cho đến khi vỏ quả ngả màu đen, chín nhũn, mang ra để gần nguội cho trẻ ăn, chỉ sau 10-15 phút sẽ giúp đi tiêu dễ dàng.

        Ngoài ra người ta còn dùng chuối tiêu thái miếng mỏng phơi khô (lấy khoảng 50-60g) kết hợp với trà xanh (10-12g), thêm chút mật ong, tất cả cho vào ấm pha hãm nước sôi như pha trà, có tác dụng nhuận táo, nhuận tràng, giáng áp, chia làm 2-3 lần uống trong ngày.

BS. VŨ HƯỚNG VĂN
(Báo SK&ĐS)

   

Trở về trang đầu


Leading Cloud Surveillance, Recording and Storage service; IP camera live viewing

Leading Enterprise Cloud IT Service; cloud file server, FTP Hosting, Online Storage, Backup and Sharing

Powered by FirstCloudIT.com, a division of DriveHQ, the leading Cloud IT and Cloud Surveillance Service provider since 2003.