HỒ XUÂN HƯƠNG
Hồ Xuân
Hương – thường được ca ngợi là «Bà Chúa thơ Nôm» – là con của Hồ Sĩ Danh
(1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, và một
người thiếp quê ở Hải Dương.
Cho đến
nay người ta vẫn chưa rõ năm sinh, năm mất, và thân thế của Hồ Xuân
Hương. Đại khái bà sống vào thời Lê mạt Nguyễn sơ, cùng thời với Nguyễn
Du (1765-1820), Phạm Đình Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839).
Bà là
em cùng cha với Hồ Sĩ Đống (1738-1786), đậu Hoàng Giáp, làm quan đến
Hành Tham Tụng, tước Quận Công, cùng Bùi Huy Bích đứng đầu phủ chúa
Trịnh Sâm, Trịnh Khải.
Các bài
thơ Nôm của bà (và được gán cho là của bà) được chép trong Xuân Hương
Thi Tập. Ngoài ra bà còn một tập thơ chữ Hán: Lưu Hương Ký.
Thơ văn
bà đầy vẻ mai mỉa, nghịch ngợm, táo bạo, nhưng chứa chan tình cảm lãng
mạn, thoát ly hẳn với những lễ giáo phong kiến thời bấy giờ. |
Thiếu Nữ Ngủ Ngày
Muà hè
hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong.
|
Đèo Ba Dội
Một
đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương reo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng ?
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
|
|
|
Cái Quạt
Một lỗ
sâu sâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dáng tự bao giờ.
Bành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa,
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ? |
Kẽm Trống
Hai bên
thì núi giữa thì sông
Có phải đây là Kẽm Trống không ?
Gió giật sườn non khua lắc cắc,
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
Ở trong hang núi còn hơi hẹp,
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng
Qua cửa, mình ơi nên ngắm lại
Nào ai có biết nỗi bưng bồng. |
Đánh Đu
Bốn cột
khen ai khéo khéo trồng !
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông
Trai du gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá ?
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không. |
Thân Phận Đàn Bà
Hỡi chị
em ơi có biết không ?
Một bên con khóc một bên chồng.
Bố cu lỏm ngỏm bò trên bụng,
Thằng bé hu hơ khóc dưới hông.
Tất cả những là thu với vén,
Vội vàng nào những bống cùng bông.
Chồng con cái nợ là như thế,
Hỡi chị em ơi có biết không ? |
Quả Mít
Thân em
như quả mít trên cây,
Da nó sù sì, múi nó dày.
Quân tử có yêu thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay. |
Con Ốc Nhồi
Bác mẹ
sinh ra phận ốc nhồi
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.
Quân tử có thương thì bóc yếm
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi. |
|
|
Bánh Trôi Nước
Thân em vừa trắng lại vừa
tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son. |
Mời Trầu
Quả cau nho nhỏ miếng trầu
hôi.
Nầy của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi. |
Không Chồng Mà Chửa
Cả nể
cho nên sự dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng.
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, (1)
Phận liễu sao đà nẩy nét ngang. (2)
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa ?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có, nhưng mà có, mới ngoan. |
Giếng Nước
Ngõ
ngang thăm thẳm tới nhà ông
Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lùng.
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lách giữa dòng.
Giếng ấy thanh tân ai chẳng biết,
Đố ai dám thả nạ dòng dòng. |
(1) Chữ
«thiên»
天
(trời), viết nhô nét phẩy lên thành chữ «phu»
夫
(chồng).
(2) Chữ
«liễu»
了
(ý nói con gái) thêm nét ngang thành chữ «tử»
子
(con). |
Trách Chiêu Hổ I
Anh đồ
tỉnh, anh đồ say,
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày ?
Này này chị bảo cho mà biết,
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay ! |
|
Trở về trang
đầu - Home |
|